Helenkhanhvy's Blog

Just another WordPress.com weblog

ĐINH LĂNG, VỊ THUỐC CHO NGƯỜI ĐAU THẮT NGỰC


Cây Đinh Lăng

Ngoài việc dùng thuốc, món ăn cũng đã giúp bệnh nhân trong quá trình điều trị.
Xin được giới thiệu một số món ăn để bạn đọc có thể tham khảo và áp dụng linh hoạt khi cần thiết.

Cháo đinh lăng tim lợn: Lá đinh lăng (dùng lá non) 60g, tim lợn 1 quả, gạo tẻ 100g, gia vị vừa đủ.

Tim lợn thái mỏng ướp gia vị, lá đinh lăng rửa sạch thái ngắn, gạo tẻ đãi sạch. Bỏ chung gạo và lá đinh lăng nấu thành cháo. Khi cháo chín kỹ cho tim lợn vào nấu thêm ít phút cho chín đều. Cho gia vị, ăn nóng.

Công dụng: hoạt huyết bổ tâm, bệnh nhân có tiền sử đau thắt ngực nên dùng.

Cháo đan sâm chim bồ câu: Đan sâm 40g, chim bồ câu 1 con, gạo tẻ 100g.

Chim bồ câu làm thịt, bỏ nội tạng, băm nhỏ nêm gia vị, phi hành mỡ rồi cho thịt chim vào xào chín kỹ. Đan sâm sắc lấy nước, cho gạo vào nấu thành cháo. Khi cháo chín cho thịt chim bồ câu vào trộn đều, cho gia vị, ăn nóng.

Đan sâm bổ khí hoạt huyết, thông mạch. Chim bồ câu bổ ngũ tạng, bổ tinh tủy. Bệnh nhân đau thắt ngực, thiếu máu, hồi hộp nên dùng.

Cháo thịt thăn cát căn: Cát căn 100g, gạo tẻ 100g, thịt thăn lợn 200g, gia vị vừa đủ.

Thịt thăn băm nhỏ, phi hành mỡ cho thơm, cho thịt vào xào chín, để riêng. Cát căn bỏ vào nồi, đổ vừa nước nấu sôi 15 – 20 phút, lấy nước cát căn này cùng với gạo nấu thành cháo. Khi cháo chín kỹ, cho thịt thăn đã xào vào trộn đều, nêm gia vị, ăn nóng.

Cát căn giãn cơ, chống co thắt; thịt thăn lợn bổ tâm thận, thông huyết mạch. Bệnh nhân bị co thắt mạch vành, có cơn đau thắt ngực nên dùng.

Lương y Trịnh Văn Sỹ

CÂY ĐINH LĂNG

Đinh lăng hay còn gọi là cây Gỏi cá, có tên khoa học: Polyscias fruticosa L. Harms, họ Ngũ gia bì (ARLIACEAE)

Đinh lăng là cây gỗ nhỏ, cao 0,8 – 1,5m, không lông, không gai. Lá kép 3 lần lông chim, dài 20 – 40cm. Lá chét có cuống nhỏ mảnh khảnh dài 3 – 15mm, dạng màng, khía răng không đều, phần nhiều khía hay chia thuỳ, có mũi nhọn, dài 3 – 10cm, rộng 0,6 – 4cm. Hoa nhỏ thành cờ, tán ngắn dài 7 – 18cm. Quả dẹt màu trắng bạc, dài và rộng khoảng 3 – 4mm, dày 1mm, đội các vòi còn lại. Cây ra hoa tháng 4 – 7.

Trong rễ có glucozit, alcaloit, saponin triterpen, flavonoit tanin và 13 loại axit amin trong đó có lyzin, xystein, methionin là những axit amin không thể thay thế được. Vitamin B1 trong thân và lá cũng có nhưng ít hơn.

Qua nghiên cứu và thử nghiệm, Viện Y học quân sự đã tìm được từ cây Đinh lăng những tính chất của Nhân sâm: Rễ Đinh lăng có tác dụng làm tăng cường sức dẻo dai và sức đề kháng của cơ thể, chống hiện tượng mệt mỏi, giúp ăn ngủ ngon, tăng khả năng lao động, lên cân và chống độc.

Rễ Đinh lăng được thu hái vào mùa thu, đông ở những cây đã trồng từ 3 năm trở lên, rễ mềm có nhiều hoạt chất. Rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân, rễ nhỏ thì dùng cả, rễ to chỉ dùng vỏ. Thái nhỏ, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió để bảo đảm mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng để nguyên hoặc tẩm rượu Gừng 5%, sao qua rồi tẩm 5% Mật ong, sao thơm. Dược liệu có vị ngọt, đắng, mùi thơm, tính mát, không độc. Được dùng dưới những dạng sau:

Thuốc ngâm rượu: Rễ Đinh lăng khô, không sao tẩm 100g, tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu 30 – 35 độ trong 7 – 10 ngày. Thỉnh thoảng lắc đều. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 6 – 10ml, uống trước bữa ăn nửa giờ.

Thuốc bột và thuốc viên: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm 100g, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 0,5 – 1g hoặc trộn bột với Mật ong vừa đủ, làm thành viên, mỗi viên 0,25 – 0,5g. Ngày uống 2 – 4 viên, chia làm 2 lần.

Thuốc hãm: Rễ Đinh lăng đã sao tẩm 5 – 10g, hãm với nước sôi như hãm chè, uống làm nhiều lần trong ngày.

Viện Y học quân sự đã dùng viên bột rễ Đinh lăng cho bộ đội tập luyện hành quân. Kết quả cho thấy khả năng chịu đựng và sức dẻo dai của họ được tăng lên rõ rệt. Các nhà khoa học Việt Nam và Nga cũng nhận thấy rễ Đinh lăng có tác dụng tốt đối với các nhà du hành vũ trụ khi luyện tập.

Ngoài ra, theo Y học cổ truyền, Hải Thượng Lãn Ông đã dùng rễ Đinh lăng sao vàng, sắc cho phụ nữ uống sau khi đẻ để chống bệnh đau dạ con và làm tăng tiết sữa.

Dùng rễ Đinh lăng liều cao sẽ thấy hiện tượng say, mệt mỏi. Lá Đinh lăng được dùng theo kinh nghiệm dân gian để tránh bệnh kinh giật cho trẻ em. Lấy cả lá non và lá già phi khô đem lót gối hoặc trải giường cho trẻ nằm. Thân và cành Đinh lăng sắc uống với liều 20 – 30g, chữa đau lưng, mỏi gối tê thấp. Dùng riêng hoặc phối hợp với rễ cây Xấu hổ, Cúc tần, Bưởi bung, Cam thảo dây.

Đinh lăng còn được dùng chữa ban sởi, ho ra máu, kiết lỵ. Phối hợp với Sữa ong chúa là thuốc bổ rất tốt.
Chú ý: Tránh nhầm với cây Đinh lăng lá tròn (Polyscias balfouriana Bailey, Đinh lăng lá to hay Đinh lăng lá ráng (Polysciasfilicifolia (Merr) Baill, Đinh lăng trổ hay Đinh lăng viền bạc (Polyscias guilfoylei Baill), Đinh lăng đĩa (Nothopanax scutellarius (Burm.f.) Merr., Đinh lăng răng (Polyscias serrata Bail) và loài Polyscias sambucifolia (Sieber) Harms. Những loài này không dùng làm thuốc.

Văn Vũ (CTQ số 21)

Tháng Tư 13, 2010 - Posted by | Thực phẩm và Bài thuốc nam

Không có bình luận

Bình luận về bài viết này